Tư liệu Ngữ văn THCS xin gửi tới thầy cô và các em Tài liệu Ôn tập Ngữ văn 9 theo chuyên đề. Hi vọng đây sẽ tài liệu hữu ích cho thầy cô và các em trong quá trình ôn tập Ngữ văn 9, ôn thi vào 10.
Ví dụ 2:
Chuyên đề ôn tập Ngữ văn 9:
HÌNH ẢNH NGƯỜI LÍNH CÁCH MẠNG
TRONG THƠ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945

I. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA:
– Chuyên đề cung cấp cho học sinh những kiến thức về hình ảnh Anh bộ đội cụ Hồ trong thơ Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám. Ngoài hai bài thơ trích học trong chương trình: Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật), chuyên đề giới thiệu thêm một số tác phẩm khác viết về đề tài này.
– Qua chuyên đề, học sinh sẽ có cái nhìn toàn diện hơn, đầy đủ hơn về hình ảnh người lính trong thơ Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám. Các em sẽ hiểu rằng Người lính là một trong những đề tài lớn của thơ ca cách mạng. Qua đó, hình ảnh người lính hiện lên với những phẩm chất cao đẹp, đáng tự hào. Vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Mĩ là sự tiếp nối những vẻ đẹp truyền thống của anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp, nhưng các anh cũng mang trong mình những vẻ đẹp mới của thời đại mới. Điều này sẽ giúp các em hoàn thành tốt hơn một số đề văn về đề tài người lính.
– Ngoài ra, chuyên đề còn bồi dưỡng tình yêu, niềm cảm phục và tự hào về hình ảnh anh bộ đội Việt Nam trong tâm hồn, tình cảm của học sinh. Điều này cũng vô cùng quan trọng, bởi tình yêu, niềm tự hào, cảm phục đó sẽ tạo cảm hứng tốt hơn khi các em viết bài.
– Bố cục chuyên đề:
1. Hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp
2. Hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Mĩ
II. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ:
Trong hai cuộc kháng chiến trường kì gian khổ của dân tộc, thơ ca Việt Nam đã phát triển khá mạnh mẽ và thu được một số thành tựu đáng tự hào. Thơ kháng chiến phần nhiều viết về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, trong đó viết khá thành công về đề tài người lính – nhân vật trung tâm của cuộc kháng chiến. Dường như thơ ca đã cùng người lính ra trận, thơ ca góp phần động viên, khích lệ họ vượt qua gian khổ, chiến thắng kẻ thù.
Sau cách mạng tháng Tám vĩ đại, đội ngũ nhà thơ Việt Nam xuất hiện một loạt cây bút trẻ. Bên cạnh những nhà thơ sáng tác trước cách mạng, những thi sĩ của phong trào Thơ Mới, chúng ta thấy sự xuất hiện của Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Chính Hữu, Hồng Nguyên, Quang Dũng, Tố Hữu…. sau đó là Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Anh Xuân, Lâm Thị Mĩ Dạ… Phần lớn các nhà thơ này đều ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia chiến đấu. Vì thế, họ có nhiều điều kiện thuận lợi để có thể viết đúng và viết hay về người lính bởi viết về người lính là viết về chính mình, về đồng đội mình. Điều ngỡ như đơn giản ấy lại là ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cảm xúc. Hình tượng người lính vẫn mang những nét xác thực trong đời sống chiến đấu, vừa tái hiện trong cảm hứng nghệ thuật đầy chất sử thi và lãng mạn. Những tác phẩm xuất sắc về người lính cũng là những tác phẩm được tạo nên trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai thứ “chất liệu” nghệ thuật này.
1.Trong kháng chiến chống Pháp:
Vẻ đẹp người lính thường gắn bó với vẻ đẹp bình dị. Họ nhanh chóng trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Tố Hữu đã nói hộ tình cảm của nhân dân đối với anh vệ quốc quân:
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!”
(Cá nước – Tố Hữu)
*Anh bộ đội cụ Hồ vốn là những nông dân mặc áo lính mang trong mình lí tưởng cao đẹp.
Vì sự sống còn của Tổ quốc, họ tạm biệt bến nước sân đình, bãi mía nương dâu để ra đi chiến đấu. Ta hãy nghe lời tâm sự của họ khi nói về quê hương mình:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
(Đồng chí – Chính Hữu)

– Họ ra đi, để lại nơi quê nhà người mẹ già, người vợ trẻ một nắng hai sương cày sâu cuốc bẫm . Trần Hữu Thung đã khắc hoạ thành công hình ảnh anh vệ quốc quân nông dân qua trí nhớ của người vợ. Trong buổi tòng quân rộn ràng tiếng trống, thấp thoáng bóng cờ, ngay phút tiễn đưa bịn rịn, anh vẫn không quên nhắc vợ:
“Ruộng mình quên cày xáo
Nên lúa chín không đều
Nhớ lấy để mùa sau
Nhà cố làm cho tốt”
(Thăm lúa – Trần Hữu Thung)
Cái chất nông dân thuần phác ấy mới đáng qúy làm sao, và chính nó sẽ làm nên sức mạnh để anh vượt qua mọi gian khổ chiến thắng kẻ thù. Các anh sẵn sàng ra đi với một quyết tâm lớn lao, sẵn sàng hy sinh riêng mình vì lí tưởng cao đẹp, đó là lí tưởng giải phóng đất nước, giải phóng quê hương, giải phóng chính cuộc đời mình khỏi lầm than nô lệ:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay…”
(Đồng chí – Chính Hữu)
– Hình ảnh các anh khác xa lắm với hình ảnh người lính thú trong ca dao xưa:
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa
(Ca dao)
Ta như thấy người lính thú hiện lên thật tội nghiệp, đáng thương. Họ bước đi bởi tiếng trống giục và trong nước mắt, bởi họ hiểu rằng họ buộc phải đi làm điều mà mình không muốn. Phía trước họ là những cuộc khởi nghĩa của nông dân, là đồng bào của chính mình. Họ cũng hiểu rằng máu xương họ đổ xuống chỉ để dìm thêm cuộc sống của bao người trong màn đêm đen tối.
Các anh cũng khác xa lắm người chinh phu trong “Chinh phụ ngâm”. Người chinh phu ấy ra đi trong tiếng nức nở xé lòng của người chinh phụ, trong nỗi chán chường, kinh sợ cảnh binh đao.
– Cũng là ra trận, cũng là đi chiến đấu nhưng người lính thú, hay người chinh phu xưa làm sao có được tư thế hiên ngang, đường hoàng và hăm hở như người chiến sĩ Việt Nam trong thơ cách mạng:
Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục.
Xóm dưới làng trên, con trai con gái
Xôi nắm cơm đùm rối rít theo nhau…
(Đường ra mặt trận – Tố Hữu)

* Các anh là những người có ý chí nghị lực phi thường, vượt lên trên mọi gian khổ khó khăn trong cuộc chiến đấu:
Kháng chiến bắt đầu từ những ngày gian nan vất vả, bắt đầu từ tiếng cuốc phá đường đến tiếng đục nhà để tiêu thổ kháng chiến. Hình ảnh anh vệ quốc quân đi vào thơ ca cũng từ những ngày tháng gian nan ấy. Hầu hết các nhà thơ không thi vị hoá người chiến sĩ, không khoác cho các anh lớp vỏ chiến binh dày dạn phong trần mà họ nhìn người lính với cái nhìn đồng chí, đồng đội. Họ rất hiểu các anh và tìm thấy ở các anh vẻ đẹp kì lạ trong những năm tháng chiến đấu, đó là tinh thần vượt khó, chịu đựng gian lao. Để rồi trong thơ họ, các anh hiện lên thật chân thực và cảm động.
Trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù, các anh là những người trực tiếp chịu biết bao hy sinh gian khổ. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, giờ đây đọc lại những vần thơ của Chính Hữu, mấy ai không cầm được nước mắt, không khâm phục sức chịu đựng phi thường của những người nông dân mặc áo lính:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
(Đồng chí – Chính Hữu)
Bao đêm các anh phải ngủ ngoài rừng:
“Trải lá cây làm chiếu
Manh áo phủ làm chăn
Trời thì mưa lăn thăn…”
(Đêm nay Bác không ngủ – Minh Huệ)
Hay:
‘Ngày lại ngày đi, vắt với sương
Ngô bung xôi nhạt, nước lưng bương
Đêm mưa rình giặc, tai thao thức,
Mùa lại mùa qua, rét nhức xương ”
(Giết giặc – Tố Hữu)
Và:
“Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn…”
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Bởi vậy, không thể coi là cường điệu khi ta đọc những vần thơ viết về trung đoàn Tây tiến của nhà thơ Quang Dũng. Sự thật ở trung đoàn này, rất nhiều chiến sĩ bị sốt rét đến nỗi nhiều người bị rụng hết tóc:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
(Tây tiến – Quang Dũng)

* Các anh có tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn:
– Trong những năm tháng gian lao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, người lính đã cùng nhau chia ngọt xẻ bùi, vào sinh ra tử có nhau. Tình đồng chí đồng đội ngày thêm keo sơn gắn bó. Bên nhau, các anh cùng nhau chia sẻ mọi tâm tư nỗi niềm. Anh hiểu tôi, cũng như tôi hiểu anh, tất cả cùng chung nỗi nhớ gia đình, nỗi nhớ quê hương. Họ hiểu rằng, ở nơi xa xôi ấy, quê hương cũng đang ngày đêm nhớ thương mình:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
(Đồng chí – Chính Hữu)
Họ chia sẻ cùng nhau nỗi nhớ mẹ nơi quê nhà đến cồn cào cháy bỏng, nhớ mẹ và hiểu được tấm lòng của mẹ:
“Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm
Bầm ơi có rét không bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non.
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần…”
(Bầm ơi – Tố Hữu)
Hay chia sẻ cùng nhau cả những điều sâu kín trong trái tim tuổi trẻ:
“Đằng nớ vợ chưa/
Đằng nớ?
Tớ còn chờ độc lập!”
(Nhớ – Hồng Nguyên)
– Lúc thiếu thốn, khi ốm đau, tình đồng chí đã giúp họ thêm sức mạnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (Đồng chí – Chính Hữu). Cái nắm tay không lời mà như biết nói bao lời. Cái nắm tay như truyền cho nhau sức mạnh, ý chí và niềm tin, truyền cho nhau hơi ấm tình người, sưởi ấm lòng nhau, sưởi ấm cả đôi bàn chân không giày trong buốt giá. Cảm động biết bao nhiêu mối quan hệ tốt đẹp của những người cùng chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”
(Đồng chí – Chính Hữu)
* Các anh là những người có tâm hồn lãng mạn, lạc quan yêu đời
Đời lính đâu phải chỉ có khói bom và thuốc súng. Với tâm hồn rộng mở, trong sáng, người lính cũng có những phút giây, những kỉ niệm thật êm đẹp, thơ mộng. Giữa cảnh núi rừng mênh mông yên tĩnh, trong màn sương muối lạnh lẽo phủ dầy, trong tư thế sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, người lính vẫn thả hồn mình tìm đến với vẻ đẹp của vầng trăng, vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của vầng trăng, thấy vầng trăng như treo nơi đầu súng:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng, trăng treo.”
(Đồng chí – Chính Hữu)
Những giây phút nghỉ ngơi giữa hai trận đánh, các anh thật hồn nhiên, trẻ trung:
‘Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ dưới nương dâu.”
(Nhớ – Hồng Nguyên)
Tóm lại: Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã xây dựng thành công hình ảnh người lính. Năm tháng đã và sẽ trôi qua nhưng những bài thơ viết về người lính trong giai đoạn lịch sử oanh liệt này vẫn còn mãi trong nền văn học dân tộc, trong lòng người dân Việt Nam. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp mãi mãi là niềm tự hào của mỗi người dân Việt nam.
2.Trong kháng chiến chống Mĩ:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, đi lên xây dựng CNXH. Nhưng cả dân tộc ta vẫn phải tiếp tục cuộc chiến đấu mới, cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong thời kì này, thơ ca Việt Nam có bước phát triển mới, lớn mạnh và phong phú hơn giai đoạn trước. Bên cạnh hai cây bút “lĩnh sướng” nổi bật của thời kì này là Tố Hữu và Chế Lan Viên, một thế hệ thi sĩ tài năng xuất hiện. Họ đông đảo về đội ngũ và đa dạng về phong cách, giọng điệu. Phần lớn trong số họ là những người trực tiếp tham gia đánh giặc và làm thơ. Đó là: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Lê Anh Xuân, Nguyễn Trọng Tạo … Từ chiến trường Trường Sơn ác liệt, Phạm Tiến Duật đã thổi vào thơ ca giọng điệu mới “giọng lính”: Đó là chất giọng trẻ trung, nghịch ngợm, trong đó nổi bật lên tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Có thể nói thơ ca thời kì này đã thể hiện sinh động hình ảnh của thế hệ trẻ “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” với ý thức ngày càng sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ trước dân tộc và nhân dân, trước Tổ quốc và lịch sử.
Hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước hiện lên với những phẩm chất cao đẹp. Các anh vẫn mang trong mình những phẩm chất truyền thống của anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là lòng yêu nước thiết tha cháy bỏng, là ý chí nghị lực phi thường vượt qua mọi gian khổ hy sinh, là tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn, là tâm hồn lạc quan yêu đời… Nhưng các anh cũng mang trong mình những vẻ đẹp mới của thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh. Vẻ đẹp nổi bật của hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Mĩ chính là sự trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm và hóm hỉnh. Vẻ đẹp của họ không chỉ tượng trưng cho vẻ đẹp của dân tộc mà được nâng lên tầng khái quát cao hơn nhiều, tầm nhân loại.
*. Trước hết, các anh luôn mang trong mình những vẻ đẹp truyền thống của Anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.
Các anh, những người lính ra đi từ miền Bắc XHCN. Không phải từ những thân phận nô lệ, cũng không chỉ là những người nông dân nơi “nước mặn đồng chua” hay vùng quê “đất cày lên sỏi đá” với khát vọng giải phóng quê hương, giải phóng cuộc đời mình thoát khỏi nô lệ lầm than mà các anh vốn là những công nhân, nông dân, trí thức, trong đó, phần lớn vừa rời ghế nhà trường để bước vào cuộc chiến đấu với khát vọng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Vẫn là lí tưởng độc lập tự do nhưng với thời đại các anh, lí tưởng cao đẹp đó đã phát triển trở thành chủ nghĩa yêu nước XHCN. Lí tưởng cáng mạng gắn với nhận thức về sữ mệnh trọng đại của dân tộc trong cuộc đấu tranh của loài người cùng với sự đi lên của dân tộc, của nhân loại. Bởi vậy, các anh ra trận với tâm hồn phơi phới tuổi xuân:
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
Với khí thế:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai
![Tài liệu Ôn tập Ngữ văn 9 theo chuyên đề 6 NGỮ VĂN 9]: 3 điểm cần lưu ý khi phân tích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” - Học Tốt Blog](https://hoctot.hocmai.vn/wp-content/uploads/2020/11/kh%C3%B4ng-k%C3%ADnh.jpg)
Với lí tưởng “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Các anh với sự hy sinh cho dân tộc là hạnh phúc thiêng liêng cao cả của cuộc đời mình:
Nếu được làm hạt giống của mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn bằng người lính đi đầu
Trong đêm tối, tim ta thành ngọn lửa”
(Chào xuân 67 – Tố Hữu)
Bởi thế, ta thấy các anh bước vào cuộc chiến đấu bằng tất cả sự chủ động, tự tin, vững vàng nhất.
Gian khổ khó khăn nhất đối với người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là sự khốc liệt của cuộc chiến tranh. Người lính hành quân vào Nam đánh giặc dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù. Những chiếc xe bị méo mó, biến dạng:
“Không có kính, không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
Không có kính, nghĩa là không có bộ phận che chắn bảo vệ các anh. Không chỉ có nắng rát, mưa dông, không chỉ có bụi đường làm bạc trắng những mái đầu mà còn là những mảnh bom đạn của kẻ thù bất cứ lúc nào cũng quăng ném vào trong xe, nhưng các anh vẫn:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhín đất, nhìn trời, nhìn thẳng…’
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
Ngay cả cái chết cũng không thể làm các anh gục ngã:
“Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Trong gian khổ hy sinh, tình đồng chí đồng đội đã làm nên sức mạnh chiến thắng kẻ thù:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)

Cái bắt tay ấm nồng tình cảm yêu thương chia sẻ. Cái bắt tay ấy là tình đồng đội thiêng liêng, họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm, là sức mạnh đoàn kết ở nơi mà sự sống và cái chết thật cận kề. Bàn tay thay cho mọi lời nói. Các anh hiểu rằng kháng chiến là gian khổ, là trường kì, vậy nên, hàng ngàn con đường ra trận đã trở thành ngôi nhà chung, những đồng đội đã trở thành gia đình ruột thịt:
‘Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
*. Nét nổi bật của vẻ đẹp người lính trong kháng chiến chống Mĩ là sự trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm và hóm hỉnh.
Thật đáng yêu trước hình ảnh:
“Những chàng lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi’
(Nước non ngàn dặm – Tố Hữu)
Hay:
“Khoái nào bằng phút nghỉ lưng
Giở trang thư dưới bóng rừng đung đưa”
Gian khổ hiểm nguy dường như lại trở thành niềm vui, sự thích thú:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Không cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. ”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
Biết tạo ra niềm vui từ chính gian khổ hy sinh, các anh nói về gian khổ hy sinh như nói về những niềm vui, niềm hạnh phúc. Bởi vậy, thương tích trên mình với các anh có đáng kể gì đâu:
Cái vết thương xoàng mà đưa viện.
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo”
(Nhớ – Phạm Tiến Duật)
Chính vì thế mà tầm vóc người chiến sĩ như cao lớn lên cùng tầm vóc của dân tộc, của thời đại trong cuộc chiến tranh về quốc vĩ đại nhất:
”Cả năm châu chân lí đang nhìn theo
Bóng anh đi và vành mũ tai bèo của anh đó”
(Hoan hô anh giải phóng quân – Tố Hữu)
Hay:
‘Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ
… Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.”
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Hình tượng người chiến sĩ trong thơ chống Mĩ có những nét riêng tư của con người, của nhân vật trữ tình đậm đà tính sáng tạo. ta hãy nghe người chiến sĩ tâm sự:
‘Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường sơn đông nhớ Trường sơn tây.”
(Trường sơn đông, Trường sơn tây – Phạm Tiến Duật)
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ, máu thịt các anh đã hoá thành phù sa làm tốt bãi bồi, xanh mướt nương dâu, “Để đất nước bay lên bát ngát mùa xuân’.
Tóm lại: Cùng với thử thách của thời gian, có thể khẳng định rằng các nhà thơ cùng với những vần thơ viết về đề tài người lính của họ ngày càng khẳng định được vị trí vững vàng trong lịch sử thơ ca Việt Nam, nó vẫn tồn tại như một vầng sáng, như một tầm cao trong thơ Việt Nam hiện đại. Nhiều bài thơ hay vẫn sống trong lòng người yêu thơ và thế hệ trẻ. Thơ về đề tài người lính là một phần không thể phủ định trong các giá trị tinh thần của một thời đại lịch sử đã và sẽ được lưu giữ, trân trọng bởi những thế hệ hôm qua và cả hôm nay.
Nguồn Hoc360.net
Xem thêm:
- Ôn tập Ngữ văn 9 theo chuyên đề
- 52 đề nghị luận ôn thi vào 10
- Tổng hợp kiến thức Ngữ văn 9
- Tài liệu ôn tập Văn bản 9
- Hướng dẫn tự ôn tập Ngữ văn 9 thi vào lớp 10