Nhớ rừng là văn bản mở đầu trong chương trình Ngữ văn 8, tập hai. Đây là một văn bản hay, nhưng cũng không dễ để tiếp cận. Tư liệu Ngữ Văn THCS xin gửi tới thầy cô và các em học sinh những nội dung chính, khái quát nhất của văn bản Nhớ rừng.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
– Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ. Là nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới giai đoạn đầu.
– Bút danh của ông là một cách chơi chữ, đồng thời có ý nghĩa: người lữ khách trần thế, cả đời chỉ ham đi tìm cái đẹp để vui chơi:
“Tôi là người khách bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi”.
Tuy nhiên, thơ ông vẫn mang nặng tâm sự thời thế đất nước.
![]() 2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ Nhớ rừng được khơi nguồn cảm hứng trực tiếp từ những lần đi chơi, đi thăm vườn bách thú; sâu xa hơn là từ tâm sự, tâm trạng u uất của lớp trí thức Tây học vừa thức tỉnh ý thức cá nhân, cảm thấy bất hòa sâu sắc với thực tại xã hội thực dân nửa phong kiến.
b. Bố cục: ba phần:
+ Khổ thơ đầu: Tâm trạng của con hổ trong vườn bách thú.
+ Hai khổ thơ tiếp theo: Nhớ tiếc quá khứ.
+ Hai khổ thơ cuối: Trở về thực tại, càng tha thiết giấc mộng ngàn.
|
c. Thể thơ: tám chữ
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Tâm trạng của con hổ trong cũi sắt ở vườn bách thú
– Hành động:
+ Gậm: dùng răng miệng mà ăn dần, cắn dần từng chút một àsự gặm nhấm đầy uất ức và bất lực.

+ khối căm hờn: cụ thể hóa cái vô hình àkhối căm hờn làm sao tan bớt được.
Nó gậm khối căm hờn không sao hóa giải được, không thể làm cách nào để tan bớt, vơi bớt. Căm hờn uất ức vì bị mất tự do, thành một tù nhân… tất cả kết tụ lại thành khối, thành tảng cứng như những chấn song cũi sắt lạnh lùng kia. Dùng động từ mạnh nhằm miêu tả tâm trạng của chúa sơn lâm, tạo thi hứng cho toàn bài.
+ Nằm dài
– Suy nghĩ: Khinh; lũ người: ngạo mạn, ngẩn ngơ, mắt bé.
– Hoàn cảnh:
+ Sa cơ, bị tù hãm
+ Trở thành trò lạ mắt, thứ đồ chơi
+ Sống cùng bọn gấu dở hơi, báo vô tư lự
– Tâm trạng:
àCăm hờn
à chán chường, buông xuôi, bất lực
à nhục nhã
=> Tâm trạng tủi nhục của vị chúa tể sa cơ lỡ vận, mất tự do.
2. Nhớ tiếc quá khứ.
– Cảnh rừng núi thiên nhiên: hùng vĩ, con hổ là chúa sơn lâm ngự trị trong vương quốc của mình.
– Hàng loạt các động từ, tính từ, danh từ được lựa chọn để làm nổi bật cảnh rừng đại ngàn: Bóng cả, cây già, gió gào, hét núi, lá gai, cỏ sắc, thảo hoa, thét, dữ dội.
– Trên cái nền thiên nhiên ấy, con hổ xuất hiện: Vừa mạnh mẽ vừa de doạ khôn khéo, nhẹ nhàng, vừa uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại, uyển chuyển.
– Sự xuất hiện của hổ làm cho mọi vật đều im hơi.
– Tâm trạng: Hài lòng, tự hào, thoả mãn.
– Trong khổ thơ tiếp theo, tác giả đã vẽ lên một bức tranh tứ bình mà hình ảnh trung tâm là Chúa sơn lâm oai linh, dữ dội,và đầy lãng mạn.
– Đó là bốn cảnh:
![]() + Đêm vàng – hổ uống ánh trăng tan
+ Ngày mưa chuyển bốn phương ngàn – vị chúa tể đứng ngắm giang san của mình.
+ Bình minh cây xanh nắng gội – vị chúa tể ngủ say trong giấc ngủ tưng bừng
+ Hoàng hôn đỏ máu – chúa sơn lâm đợt “mặt trời chết”, chờ đợi khoảnh khắc cả giang sơn này thuộc về mình.
– Câu thơ cuối là một tiếng than đầy chua xót, tiếc nuối.
à Đó chính là tâm trạng của một lớp người thời nô lệ, nhớ tiếc về quá khứ hào hùng của dân tộc, đát nước mình.
|
– Giọng thơ đầy hào hứng, bay bổng chuyển sang buồn thương nhớ tiếc mà vẫn rất tự nhiên, lôgíc.
à Quá khứ thật đẹp, thật oai hùng. Bởi vậy, trong thực tại tù túng, chật hẹp, hổ lại càng đau đớn, nhớ tiếc biết mấy khoảng thời gian mình được tung hoành, mình là chúa tể, mình được đắm chìm trong thiên nhiên tươi đẹp. Quá khứ ấy chẳng bao giờ trở lại được nữa, nên lòng ta lại càng đau đáu nhớ thương.
3. Niềm uất hận ngàn thâu trước cảnh tầm thường giả dối để càng theo giấc mộng nhớ rừng.
– Cách nhìn của hổ rộng ra, tỉ mỉ, chi tiết hơn đoạn 1. Đó là cảnh gọn gàng, sạch sẽ, được chăm sóc hằng ngày nhưng lại không hề thay đổi, nhàm chán, tầm thường giả dối.
– Biểu hiện: nó thấp kém, tù hãm, chẳng thông dòng, không âm u bí hiểm..
– Nghệ thuật: Giọng giễu nhại, kệch cỡm, chê bai, coi thường của một thân tù nhưng vẫn muốn đứng cao hơn thực tại.
– Đoạn cuối : Từ “Hỡi” thể hiện sự chán ngán, u uất, thất vọng, bất lực
– Hổ chỉ có thể chìm sâu vào giấc mộng ngàn để gặp lại hình bóng của mình trong quá khứ vàng son.
à Trong tình cảnh hiện tại và tương lai chúa rừng không còn cách nào khác ngoài cách chấp nhận. Tuy nhiên không muốn đầu hàng chỉ còn cách mơ về thời vàng son của mình với :
Khi đã buồn hiện tại
|
Thì quay về mơ xưa.
III. Tổng kết
1. Nội dung
– Mượn lời con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để:
+ diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng.
+ thể hiện niềm khao khát tự do mãnh liệt
– Khơi gợi lòng yêu nước thầm kín của những người dân mất nước.
2. Nghệ thuật
– Hình ảnh ẩn dụ
– Cảm hứng lãng mạn
– Hình ảnh thơ giàu chất tạo hình
– Ngôn ngữ, nhạc điệu dồi dào, cách ngắt nhịp linh hoạt
Nguồn – Tư liệu Ngữ văn THCS
|