Câu 1: Chép thuộc “Kiều ở lầu Ngưng Bích”:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới ra.
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Câu 2 : Vị trí đoạn trích:
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, tủi nhục nàng định tự vẫn. Tú bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn.
Câu 3 : Kết cấu đoạn trích : 3 phần
+ Sáu câu đầu : hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
+ Tám câu tiếp : nỗi thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của nàng.
+ Tám câu cuối : tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.
Câu 4 : Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích :
Giá trị nội dung “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: miêu tả chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo vị tha của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Giá trị nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình hay nhất trong “Truyện Kiều”.
Câu 5 : Giải nghĩa từ ngữ:
– Khoá xuân: khoá kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý ngày xưa không được ra khỏi phòng); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
– Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thuỷ chung gắn bó.
– Duyềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Câu 6: Hoàn cảnh và tâm trạng của Kiều thể hiện qua 6 câu thơ đầu:
– Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng (khoá xuân).
– Nàng trơ trợi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: “bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “non xa”, “trăng gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người.
Hình ảnh “non xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
– Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi “bẽ bàng mây sớm đèn khuya” sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được.
Câu 7: Tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của Kiều qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm:
* Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau. Theo nhiều nhà hủ nho thì như vậy là không đúng với truyền thống dân tộc, nhưng thật ra lại là rất hợp lý. Kiều bán mình cứu cha và em là đã đền đáp được một phần công lao cha mẹ, nên nàng cắn rứt khôn nguôi.
* Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lý do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau:
+ Nhớ Kim Trọng: Kiều “tưởng” như thấy lại kỷ niệm thiêng liêng đêm thề nguyện, đính ước “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Cái đêm ấy hình như mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán mình, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi. Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thuỷ chung, không nguôi nhớ thương Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.
+ Nhớ cha mẹ: nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức người con gái yêu. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng song thân, băn khoăn không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm già yếu. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên lên con người và cảnh vật. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ.
* Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của nàng lúc này thật xót xa, đau đớn. Nhưng quên đi cảnh ngộ bản thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân yêu nhất. Trái tim nàng thật giàu yêu thương giàu đức hi sinh. Nàng thật sự là một người tình thuỷ chung, một người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha cao cả đáng quý.
Câu 8: Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: Nghệ thuật tử cảnh ngụ tình:
– Đoạn thơ này được xem là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Để diễn tả tâm trạng Kiều – Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để khắc hoạ tâm trọng của Kiều lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
– Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng của người – mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lý do buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
– Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc hoạ qua điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông ngáng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ bút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lại bước giữa cuộc đời ngang ngược. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láychủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở câu cuối tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.
Cảch 1: Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền gần như mất hút, vẫn còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.
Cảnh 2: Buồn trông ngọn nước mới ra,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên ngọn nước mới xakhi Kiều càng buồn hơn bởi nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa sóng nước cuộc đời, không biết rồi sẽ trôi dạt đi đâu, sẽ bị dập vùi ra sao.
Cảnh 3: Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Nội cỏ “rầu rầu”, “xanh xanh” – sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhoà trải dài từ chân mây đến mặt đất, còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sác cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ.
Cảnh 4: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rì rào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“.
– Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tờt cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần“.
Tóm lại:
Cảnh thiên nhiên là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc của mình.
(Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” – Truyện Kiều).
B. Luyện tập viết đoạn:
Bài tập 1 Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có câu:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
a. Hãy chép bảy câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ thơ trên.
b. Đoạn thơ vừa chép diễn tả tâm trạng của ai với ai ?
c. Trật tự diễn tả tâm trạng đó có hợp lý không? Tại sao?
d. Viết một đoạn văn ngắn khoảng 10 câu, theo cách diễn dịch phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ trên.
Gợi ý:
a. Chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ thơ.
b. Đoạn thơ diễn tả tâm trạng nhớ thương Kim Trọng và cha mẹ của Kiều trong những ngày sống cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
c. Trật tự diễn tả tâm trạng của Kiều: Nhớ Kim Trọng trước cha mẹ đặt trong cảnh ngộ Kiều lúc đó là rất hợp lý vì:
- Vầng trăng ở câu thứ 2 trong đoạn trích gợi nhớ tới lời thề đính ước với Kim Trọng.
- Đau đớn xót xa vì mối tình đầu đẹp đẽ tan rã.
- Cảm thấy mình có lỗi khi không giữ được lời hẹn ước với chàng Kim.
- Với cha mẹ, Kiều đã phần nào làm trong chữ hiếu: bán mình để cứu cha và em → cách diễn tả này thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du và người đọc thấy được sự cảm thông của tác giả đối với nhân vật
d.Nội dung viết đoạn (Xem ở dàn ý phân tích).
Bài tập 2: Nhận xét về đoạn trích Kiều ở lầu Nhưng Bích, có ý kiến cho rằng: Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế, cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Mỗi biểu hiện của cảnh phù hợp với từng trạng thái của tình.
Hãy viết 1 đoạn văn từ 10-12 câu, phân tích 8 câu thơ cuối của đoạn trích để làm sáng tỏ nhận xét trên.
Chỉ ra một phép liên kết nối, một phép thế sử dụng trong đoạn trên.
(Gợi ý: xem dàn ý phân tích ở phần)
Đoạn văn tham khảo:
Cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng, đó chính là bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du được thể hiện ở 8 câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cảnh cửa bể chiều hôm gợi ra khoảng thời gian đã cuối ngày rồi, khi đó cũng là lúc các gia đình quây quần bên nhau, nhưng đối lập với đó, Kiều lại một mình cô đơn giữa không gian rừng núi, biển cả bao la. Lúc này, Kiều buồn tủi biết mấy, nàng muốn theo những cánh buồn xa xa kia đi xa mãi, xa mãi trở về với quê hương, gia đình yêu dấu của mình mà không thể nào được, điều ước vẫn chỉ là điều ước mà thôi. Nàng lại nhìn cánh hoa mỏng manh trôi man mác, cứ nổi lên lại ngụp xuống giữa ngọn nước mới sa để rồi chợt lo lắng cho số phận của mình liệu có như cánh hoa nhỏ bé kia biết trôi dạt về đâu giữa bao sóng gió cuộc đời giữa cái chốn lầu xanh dơ bẩn này. Và chính cuộc sống hiện tại khi biết mình bị lừa làm gái lầu xanh, rồi còn bị Tú Bà giảm ở lầu Ngưng Bích, chờ đợi được gả một tấm chồng theo lời hứa của Tú Bà đã làm Kiều rất chán ghét. Cái màu xanh bàng bạc, gần như sắp lụi tàn héo úa của nội cỏ rầu rầu đã thể hiện rất rõ tâm trạng này, dù hiện tại đã buồn chán nhưng nhìn về tương lai của đám cỏ ấy cũng như tương lai của Kiều càng tuyệt vọng, u ám hơn thế, nó chỉ là một màu xanh xanh héo úa, ảm đạm bởi giờ đây nàng sống không có mục đích, không có cả con đường tới tương lai thì mới vô vọng làm sao! Rồinàng chợt hốt hoảng giật mình bởi tiếng sóng ầm ầm, đánh rất mạnh, càng làm chông chênh thêm vị trí của mình đang ngồi. Tới đây nỗi lo lắng, sợ hãi của Kiều đã lên tới tột cùng bởi tiếng sóng ấy có khác nào tiếng sóng dữ dội, ập tới cuộc đời Kiều và báo trước tương lai đầy biến đọng của nàng, mà như sau này ta đã biết là thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần đầy những sóng gió, gian nan vất vả. Tóm lại, qua bút pháp tả cảnh ngụ tình ta hiểu được tâm trạng cô đơn, buồn tụi và thấy thương xót cho thân phận của Kiều và cảm nhận được tình yêu thương con người sâu sắc của đại thi hào của Nguyễn Du.
Phép nối: và, rồi, tóm lại
Phếp thế: Kiều – nàng (bài làm học sinh )