Tư liệu Ngữ văn THCS xin gửi tới thầy cô và các em Bộ câu hỏi trắc nghiệm Ngữ văn 6 cả năm có đáp án. Bộ câu hỏi trắc nghiệm Ngữ văn 6 được sưu tầm từ thuvienhoclieu.com. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích cho chúng ta trong quá trình ôn tập Ngữ văn 6.
BỘ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM NGỮ VĂN 6 CẢ NĂM
Bài 3. BỘ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM NGỮ VĂN 6 THÁNH GIÓNG
- CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM NGỮ VĂN 6
Đọc kĩ đoạn trích dưới đây, sau đó trả lời các câu hỏi trắc nghiệm bằng cách khoanh tròn vào chữ cái đầu tiên của mỗi câu trả lời đúng.
Tục truyền đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai Vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ có giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả đi khắp nơi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thối. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế giặc rất nguy, ngitòi ng-úời hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.
Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà[…]
1. Nhân vật Thánh Gióng trong truyện Thánh Gióng theo tương truyền xuất hiện vào đời Hùng Vương thứ mấy?
A. Đời Hùng Vương thứ sáu.
B. Đời Hùng Vương thứ tám.
C. Đời Hùng Vương thứ mười sáu.
D. Đời Hùng Vương thứ mười tám.
Trong truyện Thảnh Gióng, cha mẹ Thánh Gióng là người thế nào?
Là hai vợ chồng lớn tuổi, phúc đức, giàu có nhưng không có con trai.
Là hai vợ chồng lớn tuổi, hiếm muộn con nhưng chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng là phúc đức.
Là người hiếm muộn nhưng rất độc ác.
Là người phúc đức, nhân hậu và có nhiều con.
Câu nào dưới đây không nói về sự mang thai của bà mẹ và quá trình lớn lên của Thánh Gióng?
Bà mẹ ra đồng thấy vết chân to, liền đặt bàn chân của mình lên ướm thử để so sánh.
Bà mẹ mang thai và phải mất mười hai tháng mới sinh ra cậu bé khôi ngô tuấn tú.
Trên đường đi làm đồng, trời nắng to, bà mẹ khát nước nên uống nước trong một cái sọ dừa ven đường và mang thai.
Cậu bé lên ba tuổi vẫn không biết nói biết cười, không biết đi, cứ đặt đâu nằm đấy.
Trong truyện Thánh Gióng, cậu bé Gióng cất tiếng nói đầu tiên khi nào?
Khi Gióng được sáu tuổi và đòi đi chăn trâu.
Khi cha mẹ Gióng bị bệnh và qua đời.
Khi nghe sứ giả của nhà vua thông báo công chúa kén phò mã.
Khi nghe sứ giả của nhà vua đi loan truyền tìm người tài giỏi cứu nước, phá giặc Ân.
Thánh Gióng đòi nhà vua phải sắm cho mình những vật dụng gì để đi đánh giặc?
Một đội quân bằng sắt, một cái roi sắt và một áo giáp sắt.
Một đội quân bằng sắt, một áo giáp sắt và một cái nón sắt.
Một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một áo giáp sắt.
Một con ngựa sắt, một đội quân bằng sắt và một áo giáp sắt.
Khi Thánh Gióng gặp sứ giả, điều kì lạ nào đã xảy ra?
Gióng không cần ăn uống, lớn nhanh như thổi, trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú.
Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ.
Gióng không nói năng gì, cứ lo âu suốt ngày.
Gióng không ăn uống gì nhưng vẫn lớn nhanh như thổi.
Chi tiết nào sau đây trong truyện Thánh Gióng không mang yếu tố tưởng tượng kì ảo?
Vua Hùng cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài ra đánh giặc cứu nước.
Người mẹ mang thai sau khi ướm chân vào một bàn chân to, sau đó mười hai tháng thì sinh ra Gióng.
Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không thấy no.
Sau khi thắng giặc, Thánh Gióng cởi áo giáp sắt bỏ lại rồi cưỡi ngựa phi lên trời.
Trong truyện Thánh Gióng, sau khi roi sắt bị gãy, Thánh Gióng đã dùng vật gì để tiếp tục đánh giặc?
Gươm, giáo cướp được của quân giặc.
Dùng tay không.
Nhổ những cụm tre ven đường để quật vào quân giặc.
Cho ngựa phun lửa vào quân giặc.
Để ghi nhớ công ơn của Thánh Gióng, vua Hùng đã phong cho Thánh Gióng danh hiệu gì?
Đức Thánh Tản Viên.
Lưỡng quốc Trạng nguyên.
Bố Cái Đại Vương.
Phù Đổng Thiên Vương.
Câu nào dưới đây nói đúng nhất về nhân vật Thánh Gióng?
Là nhân vật vừa được xây dựng dựa trên thực tế anh hùng trẻ tuổi trong lịch sử, vừa từ trí tưởng tượng bắt nguồn từ tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
Là nhân vật hoàn toàn không có thực, do nhân dân tưởng tượng ra.
Là nhân vật dược xây dựng từ hình ảnh những anh hùng có thật thời xưa.
Là một cậu bé kì lạ mà chỉ có ở thời xa xưa.
2. CÂU HỎI TỰ LUẬN
Tóm tắt truyền thuyết Thánh Gióng.
Gợi ý trả lời:
Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có cặp vợ chồng ông lão tuy chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng là phúc đức nhưng không có con. Một hôm, bà vợ đang làm đồng thấy một vết chân to và ướm chân vào. Về nhà bà mang thai và sau mười hai tháng thì sinh ra một bé khôi ngô tuấn tú. Điều kì lạ là mãi lên ba tuổi, cậu bé vẫn chưa biết đi, chưa có tiếng nói, tiếng cười nào.
- Khi giặc Ân xâm phạm bờ cõi, vua Hùng cho người đi tìm nhân tài ra đánh giặc. Cậu bé cất tiếng đầu tiên và cũng là lời xin được đi đánh giặc. Cậu bé ra yêu cầu với sứ giả, đồng thời từ đó cậu lớn nhanh như thổi. Sau khi ăn hết bảy nong cơm, ba nong cà do bà con hàng xóm gom góp, cậu bé vươn vai thành một tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông ra trận diệt giặc. Trong lúc đánh giặc, roi sắt bị gãy, cậu bé nhổ những bụi tre ven đường làm vũ khí đánh giặc.
Dẹp xong giặc Ân, cậu bé ngày nào một mình một ngựa lên đỉnh núi rồi bay lên trời. Để tưởng nhớ công ơn cậu bé, nhân dân lập đền thờ, hàng năm tổ chức hội làng để tưởng nhớ. Những dấu tích của trận đánh năm xưa vẫn còn lưu lại trên mặt đất, trên những bụi tre nơi cậu bé diệt giặc.
Bài 4. CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM VĂN 6 – VĂN BẢN SƠN TINH, THỦY TINH
- CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
Đọc kĩ đoạn trích dưới đây, sau đó trả lời các câu hỏi trắc nghiệm bằng cách khoanh tròn vào chữ cái đầu tiên của mỗi câu trả lời đúng.
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một người chồng xứng đáng. Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía Đông, phía Đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía Tây, phía Tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người ở miền biển, tài năng cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Người ta gọi chàng là Thủy Tinh. Một người là chúa vùng non cao, một người là chúa vùng nước thẳm, cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng. Vua Hùng băn khoăn không biết nhận lời ai, từ chối ai, bèn cho mời các Lạc hầu vào bàn bạc. Xong vua phán:
– Hai chàng đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho người nào? Thôi thì ngày mai, ai đem sính lễ đến trước, ta sẽ cho cưới con gái ta.
Hai chàng tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những gì, vua bảo: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi”.
Hôm sau, mới tờ mờ sáng, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến rước Mị Nương về núi.
Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước.
Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã kiệt. Thần Nước đành rút quân.
Từ đó, oán nặng, thù sâu, hàng năm Thủy Tinh làm mưa gió, bão lụt dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng năm nào cũng vậy, Thần Nước đánh mỏi mệt, chán chê vẫn không thắng nổi Thần Núi để cướp Mị Nương, đành rút quân về.
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bao gồm những nhân vật nào?
Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mị Nương,
Sơn Tinh, Thũy Tinh, Vua Hùng.
Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mị Nương, Vua Hùng.
Câu nào dưới đây không nói về công chúa Mị Nương?
Có nhiều phép thuật tinh thông, từng giúp nhân dân diệt trừ yêu ma.
Là con gái của Hùng Vương thứ mười tám, được vua cha hết mực yêu thương và muốn kén chồng xứng đáng cho nàng.
Là người đẹp như hoa.
Là người có tính nết rất hiền dịu.
Điều nào dưới đây trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh nói về nhân vật Sơn Tinh?
Ở núi Tản Viên, có sức khỏe phi thường.
Có nhiều phép lạ.
Là Thần Núi.
Cả A, B và C đều đúng.
Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, nhân vật Thủy Tinh có tài gì?
Dời non lấp bể.
Diệt trừ yêu ma quỷ quái.
Gọi gió gió đến, hô mưa mưa về.
Biến hóa khôn lường.
Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, vua Hùng đã chọn cách nào để kén chồng cho Mị Nương?
Tổ chức thi tài võ nghệ, ai đánh thắng đối thủ thì sẽ cưới Mị Nương.
Quy định ngày giờ đem lễ vật kì lạ đến, ai đến trước sẽ được cưới Mị Nương.
Ai dâng lên những thứ ngon vật lạ làm vua Hùng hài lòng thì cưới được Mị Nương.
Ai bắt được quả cầu vàng do Mị Nương tung xuống thì sẽ cưới nàng làm vợ.
Vua Hùng đã thách cưới Mị Nương bằng những lễ vật gì?
Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng.
Chín ngà voi, chín cựa gà, chín ngựa hồng mao.
Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Chi tiết nào sau đây trong truyện Sơn Tỉnh, Thủy Tinh không mang yếu tố tưởng tượng kì ảo?
Hằng năm ở nước ta thường xuyên có những trận lũ lớn.
Sơn Tinh có tài dời non lấp biển.
Thủy Tinh có tài hô mưa gọi gió, làm nên lũ lụt.
Sơn Tinh và Thủy Tinh đánh nhau ròng rã mấy tháng trời.
Thủy Tinh có thái độ như thế nào khi không cưới được Mị Nương?
Buồn rầu và thất vọng.
Chấp nhận thất bại và chúc mừng Sơn Tinh.
Vô cùng tức giận, đem quân đuổi theo đánh Sơn Tinh để cướp lại Mị Nương.
Vô cùng tức giận và buộc vua Hùng phải hủy bỏ hôn ước giữa Sơn Tinh và Mị Nương.
Ý nghĩa của truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh là gì?
Giải thích hiện tượng lũ lụt ở nước ta hằng năm.
Thể hiện ước nguyện của con người trong việc chế ngự thiên nhiên.
Ca ngợi công lao dựng nước của các vua Hùng.
Cả A, B và C đều đúng.
Hãy sắp xếp các chi tiết dưới đây theo đúng thứ tự xuất hiện trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Hùng Vương thứ mười tám nêu ra yêu cầu về lễ vật.
Sơn Tinh đem lễ vật đến trước và cưới được vợ.
Vua Hùng tổ chức kén rể cho Mị Nương.
Sơn Tinh – Thủy Tinh đánh nhau ròng rã mấy tháng trời.
(1) – (2) – (3) – (4).
(1) – (3) – (2) – (4).
(3) – (1) – (2) – (4).
(1) – (3) – (4) – (2)
THAM KHẢO
“Nhiều người cho rằng, Thủy Tinh là sự hình tượng hóa và thần thánh hóa nước lũ, còn Sơn Tinh là sự hình tượng hóa và thần thánh hóa tinh thần, ý chí, khả năng và thành quả chống bão lụt của nhân dân.
Không hoàn toàn như vậy, Sơn Tinh và Thủy Tinh là những hình tượng huyền thoại, được hình thành, nhào nặn trong trí tưởng tượng của người Việt cổ, trong đó những yếu tố tự nhiên và xã hội, hiện thực và lí tưởng đã kết hợp, hòa lẫn với nhau, rất khó tách bạch. Sơn Tinh là sự khái quát hóa, hình tượng hóa và thần thánh hóa không chỉ riêng lực lượng con người (tinh thần, ý chí thành quả chống lũ lụt của nhân dân) mà còn có cả lực lượng tự nhiên (rừng, núi). Sự xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh không chỉ phản ánh mâu thuẫn giữa con người và hiện tượng bão lụt trong thiên nhiên mà còn phản ánh cả sự xung đột giữa con người với con người, giữa các bộ tộc miền biển và miền núi trong thời kì Văn Lang của các vua Hùng.
Cơn giận lưu niên “năm năm báo oán, đời đời đánh ghen” của Thủy Tinh là sự phản ánh và lí giải vô cùng độc đáo, tài tình hiện tượng bão lụt hàng năm (mang tính chu kì) của thiên nhiên và hiện tượng ghen tuông dai dẳng của con người.
Chi tiết Thủy Tinh dâng nước cao lên bao nhiêu Sơn Tinh cũng dâng núi Tản Viên cao lên bấy nhiêu thật nên thơ và độc đáo. Đó là ước mơ nhưng đồng thời cũng có nhiều tính hiện thực. Bởi vì trừ nạn hồng thủy ra, không có trận lụt nào có thể dâng nước lên cao hơn núi Ba Vì. Nếu không như vậy thì làm sao người Việt có thể tồn tại được đến ngày nay?”
(Theo Hoàng Tiến Hựu, Bình giảng truyện dân gian, NXB Giáo dục)
Nguồn Thuvienhoclieu.com
Xem thêm:
- 503 câu hỏi trắc nghiệm môn Văn THCS
- Bộ câu hỏi trắc nghiệm Ngữ văn 7
- 500 bài tập trắc nghiệm và tự luận Ngữ văn 8
- 100 đề kiểm tra Ngữ văn 6 biên soạn theo chương trình mới